Tác giả: Nguyễn Sỹ Phương
Khác với kinh tế quản lý tập trung, nền kinh tế thị trường tuân theo quy luật cung cầu. Thị trường nhân dụng cũng không ngoại lệ. Chúng luôn dịch chuyển từ chỗ thừa sang chỗ thiếu để lập thế cân bằng mới cả về cơ cấu lẫn số lượng, trong khi đó cả về chính sách lẫn nhận thức dân chúng nước ta chưa hẳn sẵn sàng thích ứng với quy luật lưu thông chất xám trong thời đại toàn cầu hoá mà vẫn nặng kỳ thị nó coi đó là chảy máu chất xám.
Phần I: Sự kiện 12/13 thủ khoa Đường lên đỉnh Olympia Việt Nam ở lại nước ngoài.
Phần II: Quy luật di cư
Hiện tượng di chuyển nơi cư trú (di cư, hay di trú) gắn liền với loài người từ nguyên thủy, dần hình thành các tộc chủng phân bố khăp năm châu. Và cũng như trái đất, nó trở thành quy luật vận động không ngưng nghỉ. Tích gốc người Việt từ con rồng cháu tiên, 50 người xuống biển, 50 lên rừng tỏ ra không ngoại lệ. Do đặc tính dị dưỡng, chưa nói người, đến động vật cũng vậy, tới độ hình thành cả loài chim di trú; di cư vì vậy có thể coi là quy luật „đất lành chim đậu" không thể cưỡng. Không phải vô cớ bài hát „Trái đất này là của chúng mình", cuốn hút trẻ em ước ao tới vậy !
Theo số liệu UN, năm 2005 thế giới có tới 190 triệu người di cư, chiếm 3% dân số toàn cầu.
Khảo cứu các nước OECD năm 2012 cho kết quả, con số nhập cư dôi (hiệu số đầu vào trừ đầu ra) ở Mỹ đứng đầu trên 1.000.000 người. Đức thứ 2 chừng 400.000, Anh Quốc 300.000 thứ 3; đứng cuối cùng Mexico 20.000, thứ hạng trước đó Phần Lan 23.000.
Phần III: Quy luật lưu thông chất xám
Con người sinh ra để mưu sinh, di cư chính nhằm thay đổi hẳn cuộc sống, tìm đất lành chim đậu. Nhất là khi bị đe doạ sinh tồn, như chiến tranh, thiên tai, đàn áp. Hoặc do kỳ vọng hay tìm thấy ở quốc gia mới môi trường làm việc phát huy được năng lực, thu nhập thích ứng, điều kiện xã hội mọi mặt bảo đảm chất lượng cuộc sống, thường xảy ra đối với lao động bậc cao - được gọi là „chất xám“. Chất xám chảy máu hay đó chỉ là sự lưu thông toàn cầu như bất kỳ thị trường nào, vốn, hàng hoá, tiền tệ... hoàn toàn do thể chế kinh tế chính trị quyết định. Trước đây không xảy ra hiện tượng di cư chất xám toàn cầu tới mức như hiện nay, do một nửa thế giới áp dụng nền kinh tế quản lý tập trung, đặc trưng của các nước xã hội chủ nghĩa. Theo đó, kế hoạch nhân lực do nhà nước phân bổ quản lý, cá nhân không được quyền và không thể tự do tìm, làm việc ở quốc gia khác; vượt ngoài giới hạn đó nhẹ bị coi là lưu vong, nặng quy kết về chính trị. Đề án 150 Cần Thơ và công văn 1665/UBND - SNV Bình Thuận đặt ra quy định đối với nhân sự họ liên quan tới làm việc ở nước ngoài, và luồng dư luận phản đối những người đó có thể nhìn nhận dưới góc độ trên. Như vậy cả về chính sách lẫn nhận thức dân chúng nước ta chưa hẳn sẵn sàng thích ứng với quy luật lưu thông chất xám trong thời đại toàn cầu hoá mà vẫn nặng kỳ thị nó coi đó là chảy máu chất xám. Khác với kinh tế quản lý tập trung, nền kinh tế thị trường tuân theo quy luật cung cầu. Thị trường nhân dụng cũng không ngoại lệ. Chúng luôn dịch chuyển từ chỗ thưà sang chỗ thiếu để lập thế cân bằng mới cả về cơ cấu lẫn số lượng. Tốc độ có thể rất nhanh, như kết qủa UN thống kê 60 năm qua cho thấy số nhập cư dôi thay đổi chỉ trong vài ba năm. Đức năm 2009 mới đứng thứ 8, năm 2012 đã lên thứ 2, sau Mỹ. Dịch chuyển không theo một hướng mà mang tính thuận nghịch như xuất nhập khẩu; năm 2013 Đức có 1.226.000 triệu người nhập cư, thì cũng có tới 789.000 người Đức di cư ra nước ngoài. Không đâu là đất lành vĩnh viễn cho mọi con người! Thậm chí mang tính lặp lại, di cư rồi nhập cư trở lại; trong tổng số người nhập cư vào Đức nói trên có tới 110.000 người Đức di cư trước kia nay hồi hương. Nguyên lý thuận nghịch và lặp lại, hay nói cách khác „lưu thông chất xám", giúp tạo nên thị trường nhân dụng thế giới cân bằng động, không nước nào „chết hẳn" vì mất chất xám và cũng không nước nào „bội thực" vì quá nhiều. Còn chênh lệch là quy luật tất yếu của xã hội loài người, giống như giàu và nghèo, chính nó lại tạo ra động lực khắc phục nó, thúc đẩy vận động phát triển, tương tự như trong nhiệt động học, chênh lệch nhiệt độ là động lực quyết định tốc độ truyền nhiệt.
Phần IV: Thực tế nhập cư một số nước
Quy luật lưu thông chất xám không chỉ phát huy tác dụng ở nước giàu như Đức. Khác với chảy máu chất xám là mất nó, lưu thông chất xám giúp cho nước nghèo phát triển; trong số 3-4 triệu người Việt di cư ra nước ngoài, hiện hàng năm có trên 10 tỷ đô la ngang ngửa thu ngân sách nước ta, đổ về nước. Kèm theo đó, bao cá nhân, gia đình, nhà kinh doanh, cùng công ty nước ngoài, mang theo kiến thức công nghệ thiết bị về nước lập nghiệp (đáng tiếc thiếu số liệu thống kê để lượng hoá). Chưa nói những nhân vật tên tuổi thế giới sống ở nước ngoài như Ngô Bảo Châu đã và đang đóng góp cho đất nước.
Trung Quốc là nước hội nhập lưu thông chất xám có kết qủa hàng đầu thế giới; chấp nhận chảy máu chất xám ban đầu, thu lại chất xám về sau, biến nó thành lưu thông chất xám 2 chiều, thông qua khuyến khích học sinh du học, làm việc ở nước ngoài, thậm chí nhập quốc tịch hay kết hôn, rồi ưu đãi chào mời họ trở về. Từ những năm 1980 đến 2007, trên 2/3 số du học sinh Trung Quốc không về nước làm việc, 88% sinh viên du học tại Mỹ ở lại lâu dài ít nhất 5 năm. Năm 2012 có tới 72% chuyên gia Trung Quốc tới Mỹ bổ túc kiến thức, không trở về.
Ở Nga, trong vòng 10 năm hậu Xô Viết, ước từ 500.000 tới 800.000 chuyên gia Nga sang các nước phương Tây lập nghiệp. Hoa Kỳ là quốc gia hàng đầu thu hút nguồn chất xám; năm 2012, trong ngành y cứ 4 bác sĩ có một nhập cư. Anh thuộc quốc gia hiện đại, nhưng 1/3 trong số 3,3 triệu người Anh di cư ra nước ngoài có bằng đại học.
Trong gần 3.000 công dân Pháp lấy bằng tiến sĩ ở Mỹ, có tới 70% ở lại tương đương tỷ lệ ở lại của du học sinh Việt Nam, chứng tỏ chất xám lưu thông không hẳn cứ từ nước nghèo tới nước giàu.
Phần V: Tham khảo chính sách và thị trường chất xám ở Đức
Thị trường không phải một chiếc bánh để chia đều, hay phúc lợi nhà nước phải bảo đảm như nhau cho mọi người, mà là nơi cạnh tranh giành lợi nhuận, kể cả thị trường nhân dụng. Quốc gia nào tạo nên thị trường hấp dẫn, quốc gia đó sẽ vượt trội. Có thể tham khảo chính sách thu hút chất xám Đức, không phải bằng chủ trương chung chung hay mỹ từ kêu gọi, mà được điều chỉnh bởi một hệ thống pháp lý hoàn chỉnh, tự động, trên cơ sở Luật Lưu trú (AufenthG) và nghị định Quyền Làm việc (BeschV), áp dụng cho sinh viên nước ngoài, đã tốt nghiệp đại học, các khoa học gia được mời, các trí thức, lao động nước ngoài bậc cao khác ngoài EU (trong EU được coi như người Đức). Theo Điều 16 Luật AufenthG, sinh viên nước ngoài học dự bị tiếng Đức sau năm thứ 1 và khi học chính thức không cần giấy phép của Cơ quan Lao động Đức cấp, được làm việc 120 ngày hoặc 240 nửa ngày / năm, không kể ngày lễ, cuối tuần, hay các công việc cộng tác khoa học, phụ trợ trong trường. Với luật lương tối thiểu áp dụng từ năm tới, 8,50 Euro/giờ, họ dễ dàng đảm bảo cuộc sống, chi phí học tập chưa kể hỗ trợ gia đình, và đặc biệt qua đó hoà nhập vào xã hội Đức, làm nền tảng cho họ tự quyết định dễ dàng nên ở lại hay hồi hương sau khi học, không bị thụ động đứng giữa đôi dòng nước.
Sinh viên các nước trong kỳ nghỉ hè sang Đức mỗi năm được phép làm việc 3 tháng (Điều 10 BeschV). Đó là cơ hội để họ tìm hiểu thị trường lao động Đức. Sinh viên nước ngoài thực tập trong khuôn khổ trao đổi giữa 2 nhà nước, được phép làm việc 1 năm không cần giấy phép lao động (Điều 2, BeschV).
Sinh viên nước ngoài học ở Đức, sau khi tốt nghiệp được cấp giấy phép lưu trú 18 tháng để tìm việc (Điều 16 Aufenth G). Nếu tìm được, sẽ được cấp giấy phép lưu trú có thời hạn ở Đức để làm việc (Điều 18 AufenthG). Sau 2 năm, được cấp giấy phép lưu trú vô thời hạn, tức định cư ở Đức (Điều 18 b Aufenth G). Nghĩa là nhà nước tạo mọi điều kiện cho sinh viên nước ngoài hoà nhập dần vào xã hội Đức từng cấp bậc một từ khi nhập học cho đến khi định cư hẳn. Giải thích tại sao đa phần sinh viên nước ngoài sau khi tốt nghiệp ở lại Đức, tới 2/3; số còn lại hồi hương do hoặc không tìm được chỗ làm việc, hoặc sẵn chỗ hưá hẹn trong nước tốt hơn, hoặc vì hoàn cảnh cá nhân.
Các nhà khoa học sang Đức nghiên cứu cộng tác sẽ được cấp giấy phép để lưu trú ở Đức với mục đích làm việc tiếp tục, nếu họ được nhận làm nhân viên nghiên cứu, giảng dạy, kỹ sư, kỹ thuật viên tại các trường đại học, cơ sở khoa học Đức, hoặc cơ sở tương tự (Điều 5 BeschV, Điều 18 AufenthG). Những người khác chưa được nhận vẫn được cấp giấy phép lưu trú tương tự, nếu họ có kiến thức chuyên môn đặc biệt có lợi cho xã hội Đức. Chính sách trên chính xuất phát từ nguyên lý sâu xa, nền kinh tế hiện đại còn được gọi là nền kinh tế trí thức, nên khả năng cạnh tranh của nó tùy thuộc vào lợi thế chất xám, cần phải thu hút. Những trường hợp như ông Nguyễn Ngọc Phi Long, hay ông Nguyễn Tất Thạch, hay bất cứ ai tương tự nếu nhìn từ góc độ chính sách nhà nước Đức nói trên, sẽ thấy đó là quy luật tất yếu; cá nhân bị nó chi phối chứ không thể chi phối lại. Tương tự các nhà khoa học trên, theo Điều 20 AufenthG và Quy phạm EU, các nhà nghiên cứu ngoại quốc được cấp giấy phép lưu trú với mục đích nghiên cứu nếu có các cơ sở nghiên cứu ở Đức tiếp nhận làm việc với mức lương tối thiểu 1.750 Euro/tháng (phiá Tây), 1.493,33 Euro/tháng (phiá Đông), nghĩa là thị trường tuyển dụng không chỉ ở Đức mà vươn ra toàn cầu. Cũng vậy các nhà khoa học hay giảng dạy ngoại quốc có kiến thức chuyên môn nổi trội hoặc ở vị trí lãnh đạo, muốn sang Đức làm việc, sẽ được cấp giấy phép lưu trú vĩnh viễn, không cần điều kiện mức lương tối thiểu (Điều 19 AufenthG). Người nước ngoài có bằng đại học được phép sang Đức tìm việc 6 tháng nếu tự bảo đảm được cuộc sống trong thời gian đó (Điều 18 AufenthG). Để ở lại làm việc tiếp tục, họ được cấp giấy phép lưu trú đặc biệt gọi là thẻ xanh EU, với điều kiện mức lương tối thiểu phải bằng 2/3 mức thu nhập giới hạn trên trong đóng bảo hiểm hưu trí nhà nước. Sau 33 tháng làm việc sẽ được cấp giấy phép lưu trú vô thời hạn (Điều 19a AufenthG). Ngay cả những người không được cấp thẻ xanh do không đạt mức lương tối thiểu cũng có thể được cấp giấy phép lưu trú để làm việc, nếu được cơ quan quản lý lao động đồng ý (Điều 27 BeschV). Người lao động bao giờ cũng gắn với gia đình, để thu hút lao động bậc cao yên cư lạc nghiệp thì phải bảo đảm gia đình họ được đoàn tụ. Người đoàn tụ cũng được cấp giấy phép lưu trú, làm việc và hưởng mọi tiêu chuẩn an sinh như mọi công dân Đức (Điều 2-15 BeschV).
Nhờ chính sách được luật hoá thành hành lang pháp lý trên, mà Đức hiện đứng hàng thứ 2 thế giới về nhập cư dôi, không chỉ thu hút chất xám thế giới mà còn bù đắp được vấn nạn dân số giảm 200.000 người mỗi năm do số người chết cao hơn số người sinh; hoà nhập họ như công dân Đức, nói cách khác công dân hoá lao động bậc cao nước ngoài.
Phần VI: Còn chính sách nước ta?
Nước ta chưa thể mong, và đủ khả năng công dân hoá lao động bậc cao nước ngoài như Đức vốn còn qúa xa vời, nhưng đối với lao động bậc cao người Việt và gốc Việt ở nước ngoài thì sao? Trong thời đại toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, không quốc gia nào dùng được biện pháp hành chính để điều khiển thị trường lao động như trong nền kinh tế quản lý tập trung cả, mà chỉ có thể điều chỉnh chính mình để thích ứng với thị trường đó. Khác hẳn mọi thị trường khác mang tính vật chất nằm ngoài con người, thị trường lao động nằm trong chính mỗi con người, vì vậy chỉ có thể thích ứng với thị trường đó khi nước ta hội nhập đầy đủ thể chế kinh tế, xã hội thế giới. Mà điều kiện tiên quyết làm nền tảng cho nó, bước đi đột phá đầu tiên, có thể coi như thí điểm, chính là chính sách hoà nhập lao động tái nhập cư, bảo đảm bình đẳng, không phân biệt người Việt trong hay ngoài nước, như nhà nước Đức không hề phân biệt đối với người Đức ở nước ngoài hay công dân nước ngoài sống ở Đức. Đơn thuần như kết hôn thôi, hoàn toàn riêng tư, không phải đại sự quốc gia gì, ở Đức người Đức đăng ký ở đâu người nước ngoài cũng đăng ký ở đó. Nhưng nước ta phân biệt, ai quốc tịch nước ngoài đều phải tới Sở Tư pháp tỉnh thành, kể cả gốc Việt, lẫn người Việt định cư, còn người dân chỉ cần tới ủy ban phường xã. Chẳng nhẽ chính giới ta không ai nhận ra hai thế giới người Việt trong một quốc gia Việt qua từng hiện tượng riêng lẻ như thế cộng lại – cái gọi là chính sách trên thực tế ? Chỉ cần đạt được điều kiện tiên quyết trên thôi thì đã thu hút được bao lao động bậc cao Việt ở nước ngoài. Một khi sống ở đâu làm gì không còn phải lưỡng lự do bị phân biệt, ắt họ sẽ tự động chọn „quê hương là chùm khế ngọt" mà không cần bất cứ một ưu đãi ưu ái lợi ích nào ở Việt Nam vốn không thể nào cao hơn các quốc gia hiện đại.