Thứ Năm, 18 tháng 9, 2014

Chảy máu hay lưu thông chất xám,

Nguồn: Theo Tia Sáng
Tác giả:  Nguyễn Sỹ Phương
Khác với kinh tế quản lý tập trung, nền kinh tế thị trường tuân theo quy luật cung cầu. Thị trường nhân dụng cũng không ngoại lệ. Chúng luôn dịch chuyển từ chỗ thừa sang chỗ thiếu để lập thế cân bằng mới cả về cơ cấu lẫn số lượng, trong khi đó cả về chính sách lẫn nhận thức dân chúng nước ta chưa hẳn sẵn sàng thích ứng với quy luật lưu thông chất xám trong thời đại toàn cầu hoá mà vẫn nặng kỳ thị nó coi đó là chảy máu chất xám.
Phần I: Sự kiện 12/13 thủ khoa Đường lên đỉnh Olympia Việt Nam ở lại nước ngoài.
                       

Cuộc thi kiến thức Đường lên đỉnh Olympia dành cho học sinh trung học phổ thông của VTV3, tổ chức từ năm 1999 đến nay đã qua 14 năm. Ngoài phần thưởng, các nhà vô địch hằng năm còn được Đại học Kỹ thuật Swinburne Úc trao tặng 100% học bổng. Trong số 13 thủ khoa đã tốt nghiệp có đến 12 ở lại làm việc, như Trần Ngọc Minh, tốt nghiệp chuyên ngành telecom, làm việc ở Canberra. Võ Văn Dũng, ngành Information Systems & Business (Accouting), làm kế toán ở Melbourne. Đỗ Lâm Hoàng chuyên ngành Telecom, làm việc tại Melbourne.... Duy nhất nhà vô địch 2011, Lương Phương Thảo, trở về Việt Nam sinh sống. Sự kiện trên trở thành tin hot được dư luận quan tâm tranh cãi nhiều chiều gắn với hiện tượng toàn cầu, mà giới chỉ trích gọi là „chảy máu chất xám" tức mất chất xám. Thuật ngữ này dịch từ tiếng Anh: human capital flight, hoặc brain drain, dùng để chỉ trích dòng di cư nguồn nhân lực bậc cao giữa các nước, dồn về các nước giàu. Dư luận càng quan tâm hơn khi ông Trần Ngọc Phi Long, 31 tuổi, Phó Phòng Hợp tác quốc tế, Sở Ngoại vụ Cần Thơ, từng học thạc sĩ chuyên ngành „quản lý quan hệ quốc tế“ tại Anh theo đề án 150 của Cần Thơ, được cử đi công tác tại Canada đầu tháng 7.2014, không về nước, viết thư xin nghỉ việc. Trong khi đó đề án 150 quy định người được du học bằng ngân sách phải cam kết làm việc cho địa phương thời hạn bằng ba lần thời gian học tập, làm cho luồng dư luận phản đối ông Long có thêm căn cứ pháp lý. Trước đó, ông Nguyễn Tất Thạch, cán bộ Trung tâm Công nghệ thông tin, thuộc Sở Tài nguyên và Môi trường Bình Thuận, nhân dịp nghỉ lễ 30/4, 1/5 đi tour du lịch sang Hàn Quốc không trở về. Cũng như trường hợp trên, luồng dư luận phản đối căn cứ vào văn bản 1665/UBND - SNV ngày 8/5/2013 quy định cán bộ, công chức viên chức nghỉ phép đi tham quan, du lịch nước ngoài phải được Giám đốc Sở Nội vụ cho phép. Những thành phần trên, dù nhìn dưới góc độ chảy máu chất xám hay không, cũng chỉ là 1 phần nhỏ trong tổng số gần 4 triệu người Việt, gốc Việt, hiện định cư ở nước ngoài, nằm trong quy luật di cư của xã hội loài người.
Phần II: Quy luật di cư
Hiện tượng di chuyển nơi cư trú (di cư, hay di trú) gắn liền với loài người từ nguyên thủy, dần hình thành các tộc chủng phân bố khăp năm châu. Và cũng như trái đất, nó trở thành quy luật vận động không ngưng nghỉ. Tích gốc người Việt từ con rồng cháu tiên, 50 người xuống biển, 50 lên rừng tỏ ra không ngoại lệ. Do đặc tính dị dưỡng, chưa nói người, đến động vật cũng vậy, tới độ hình thành cả loài chim di trú; di cư vì vậy có thể coi là quy luật „đất lành chim đậu" không thể cưỡng. Không phải vô cớ bài hát „Trái đất này là của chúng mình", cuốn hút trẻ em ước ao tới vậy !
Theo số liệu UN, năm 2005 thế giới có tới 190 triệu người di cư, chiếm 3% dân số toàn cầu.
Khảo cứu các nước OECD năm 2012 cho kết quả, con số nhập cư dôi (hiệu số đầu vào trừ đầu ra) ở Mỹ đứng đầu trên 1.000.000 người. Đức thứ 2 chừng 400.000, Anh Quốc 300.000 thứ 3; đứng cuối cùng Mexico 20.000, thứ hạng trước đó Phần Lan 23.000.
Phần III: Quy luật lưu thông chất xám
   Con người sinh ra để mưu sinh, di cư chính nhằm thay đổi hẳn cuộc sống, tìm đất lành chim đậu. Nhất là khi bị đe doạ sinh tồn, như chiến tranh, thiên tai, đàn áp. Hoặc do kỳ vọng hay tìm thấy ở quốc gia mới môi trường làm việc phát huy được năng lực, thu nhập thích ứng, điều kiện xã hội mọi mặt bảo đảm chất lượng cuộc sống, thường xảy ra đối với lao động bậc cao - được gọi là „chất xám“. Chất xám chảy máu hay đó chỉ là sự lưu thông toàn cầu như bất kỳ thị trường nào, vốn, hàng hoá, tiền tệ... hoàn toàn do thể chế kinh tế chính trị quyết định. Trước đây không xảy ra hiện tượng di cư chất xám toàn cầu tới mức như hiện nay, do một nửa thế giới áp dụng nền kinh tế quản lý tập trung, đặc trưng của các nước xã hội chủ nghĩa. Theo đó, kế hoạch nhân lực do nhà nước phân bổ quản lý, cá nhân không được quyền và không thể tự do tìm, làm việc ở quốc gia khác; vượt ngoài giới hạn đó nhẹ bị coi là lưu vong, nặng quy kết về chính trị. Đề án 150 Cần Thơ và công văn 1665/UBND - SNV Bình Thuận đặt ra quy định đối với nhân sự họ liên quan tới làm việc ở nước ngoài, và luồng dư luận phản đối những người đó có thể nhìn nhận dưới góc độ trên. Như vậy cả về chính sách lẫn nhận thức dân chúng nước ta chưa hẳn sẵn sàng thích ứng với quy luật lưu thông chất xám trong thời đại toàn cầu hoá mà vẫn nặng kỳ thị nó coi đó là chảy máu chất xám. Khác với kinh tế quản lý tập trung, nền kinh tế thị trường tuân theo quy luật cung cầu. Thị trường nhân dụng cũng không ngoại lệ. Chúng luôn dịch chuyển từ chỗ thưà sang chỗ thiếu để lập thế cân bằng mới cả về cơ cấu lẫn số lượng. Tốc độ có thể rất nhanh, như kết qủa UN thống kê 60 năm qua cho thấy số nhập cư dôi thay đổi chỉ trong vài ba năm. Đức năm 2009 mới đứng thứ 8, năm 2012 đã lên thứ 2, sau Mỹ. Dịch chuyển không theo một hướng mà mang tính thuận nghịch như xuất nhập khẩu; năm 2013 Đức có 1.226.000 triệu người nhập cư, thì cũng có tới 789.000 người Đức di cư ra nước ngoài. Không đâu là đất lành vĩnh viễn cho mọi con người! Thậm chí mang tính lặp lại, di cư rồi nhập cư trở lại; trong tổng số người nhập cư vào Đức nói trên có tới 110.000 người Đức di cư trước kia nay hồi hương. Nguyên lý thuận nghịch và lặp lại, hay nói cách khác „lưu thông chất xám", giúp tạo nên thị trường nhân dụng thế giới cân bằng động, không nước nào „chết hẳn" vì mất chất xám và cũng không nước nào „bội thực" vì quá nhiều. Còn chênh lệch là quy luật tất yếu của xã hội loài người, giống như giàu và nghèo, chính nó lại tạo ra động lực khắc phục nó, thúc đẩy vận động phát triển, tương tự như trong nhiệt động học, chênh lệch nhiệt độ là động lực quyết định tốc độ truyền nhiệt.
Phần IV: Thực tế nhập cư một số nước
Quy luật lưu thông chất xám không chỉ phát huy tác dụng ở nước giàu như Đức. Khác với chảy máu chất xám là mất nó, lưu thông chất xám giúp cho nước nghèo phát triển; trong số 3-4 triệu người Việt di cư ra nước ngoài, hiện hàng năm có trên 10 tỷ đô la ngang ngửa thu ngân sách nước ta, đổ về nước. Kèm theo đó, bao cá nhân, gia đình, nhà kinh doanh, cùng công ty nước ngoài, mang theo kiến thức công nghệ thiết bị về nước lập nghiệp (đáng tiếc thiếu số liệu thống kê để lượng hoá). Chưa nói những nhân vật tên tuổi thế giới sống ở nước ngoài như Ngô Bảo Châu đã và đang đóng góp cho đất nước.
Trung Quốc là nước hội nhập lưu thông chất xám có kết qủa hàng đầu thế giới; chấp nhận chảy máu chất xám ban đầu, thu lại chất xám về sau, biến nó thành lưu thông chất xám 2 chiều, thông qua khuyến khích học sinh du học, làm việc ở nước ngoài, thậm chí nhập quốc tịch hay kết hôn, rồi ưu đãi chào mời họ trở về. Từ những năm 1980 đến 2007, trên 2/3 số du học sinh Trung Quốc không về nước làm việc, 88% sinh viên du học tại Mỹ ở lại lâu dài ít nhất 5 năm. Năm 2012 có tới 72% chuyên gia Trung Quốc tới Mỹ bổ túc kiến thức, không trở về.
Ở Nga, trong vòng 10 năm hậu Xô Viết, ước từ 500.000 tới 800.000 chuyên gia Nga sang các nước phương Tây lập nghiệp. Hoa Kỳ là quốc gia hàng đầu thu hút nguồn chất xám; năm 2012, trong ngành y cứ 4 bác sĩ có một nhập cư. Anh thuộc quốc gia hiện đại, nhưng 1/3 trong số 3,3 triệu người Anh di cư ra nước ngoài có bằng đại học.
Trong gần 3.000 công dân Pháp lấy bằng tiến sĩ ở Mỹ, có tới 70% ở lại tương đương tỷ lệ ở lại của du học sinh Việt Nam, chứng tỏ chất xám lưu thông không hẳn cứ từ nước nghèo tới nước giàu.
Phần V: Tham khảo chính sách và thị trường chất xám ở Đức
Thị trường không phải một chiếc bánh để chia đều, hay phúc lợi nhà nước phải bảo đảm như nhau cho mọi người, mà là nơi cạnh tranh giành lợi nhuận, kể cả thị trường nhân dụng. Quốc gia nào tạo nên thị trường hấp dẫn, quốc gia đó sẽ vượt trội. Có thể tham khảo chính sách thu hút chất xám Đức, không phải bằng chủ trương chung chung hay mỹ từ kêu gọi, mà được điều chỉnh bởi một hệ thống pháp lý hoàn chỉnh, tự động, trên cơ sở Luật Lưu trú (AufenthG) và nghị định Quyền Làm việc (BeschV), áp dụng cho sinh viên nước ngoài, đã tốt nghiệp đại học, các khoa học gia được mời, các trí thức, lao động nước ngoài bậc cao khác ngoài EU (trong EU được coi như người Đức). Theo Điều 16 Luật AufenthG, sinh viên nước ngoài học dự bị tiếng Đức sau năm thứ 1 và khi học chính thức không cần giấy phép của Cơ quan Lao động Đức cấp, được làm việc 120 ngày hoặc 240 nửa ngày / năm, không kể ngày lễ, cuối tuần, hay các công việc cộng tác khoa học, phụ trợ trong trường. Với luật lương tối thiểu áp dụng từ năm tới, 8,50 Euro/giờ, họ dễ dàng đảm bảo cuộc sống, chi phí học tập chưa kể hỗ trợ gia đình, và đặc biệt qua đó hoà nhập vào xã hội Đức, làm nền tảng cho họ tự quyết định dễ dàng nên ở lại hay hồi hương sau khi học, không bị thụ động đứng giữa đôi dòng nước.
Sinh viên các nước trong kỳ nghỉ hè sang Đức mỗi năm được phép làm việc 3 tháng (Điều 10 BeschV). Đó là cơ hội để họ tìm hiểu thị trường lao động Đức. Sinh viên nước ngoài thực tập trong khuôn khổ trao đổi giữa 2 nhà nước, được phép làm việc 1 năm không cần giấy phép lao động (Điều 2, BeschV).
Sinh viên nước ngoài học ở Đức, sau khi tốt nghiệp được cấp giấy phép lưu trú 18 tháng để tìm việc (Điều 16 Aufenth G). Nếu tìm được, sẽ được cấp giấy phép lưu trú có thời hạn ở Đức để làm việc (Điều 18 AufenthG). Sau 2 năm, được cấp giấy phép lưu trú vô thời hạn, tức định cư ở Đức (Điều 18 b Aufenth G). Nghĩa là nhà nước tạo mọi điều kiện cho sinh viên nước ngoài hoà nhập dần vào xã hội Đức từng cấp bậc một từ khi nhập học cho đến khi định cư hẳn. Giải thích tại sao đa phần sinh viên nước ngoài sau khi tốt nghiệp ở lại Đức, tới 2/3; số còn lại hồi hương do hoặc không tìm được chỗ làm việc, hoặc sẵn chỗ hưá hẹn trong nước tốt hơn, hoặc vì hoàn cảnh cá nhân.
Các nhà khoa học sang Đức nghiên cứu cộng tác sẽ được cấp giấy phép để lưu trú ở Đức với mục đích làm việc tiếp tục, nếu họ được nhận làm nhân viên nghiên cứu, giảng dạy, kỹ sư, kỹ thuật viên tại các trường đại học, cơ sở khoa học Đức, hoặc cơ sở tương tự (Điều 5 BeschV, Điều 18 AufenthG). Những người khác chưa được nhận vẫn được cấp giấy phép lưu trú tương tự, nếu họ có kiến thức chuyên môn đặc biệt có lợi cho xã hội Đức. Chính sách trên chính xuất phát từ nguyên lý sâu xa, nền kinh tế hiện đại còn được gọi là nền kinh tế trí thức, nên khả năng cạnh tranh của nó tùy thuộc vào lợi thế chất xám, cần phải thu hút. Những trường hợp như ông Nguyễn Ngọc Phi Long, hay ông Nguyễn Tất Thạch, hay bất cứ ai tương tự nếu nhìn từ góc độ chính sách nhà nước Đức nói trên, sẽ thấy đó là quy luật tất yếu; cá nhân bị nó chi phối chứ không thể chi phối lại. Tương tự các nhà khoa học trên, theo Điều 20 AufenthG và Quy phạm EU, các nhà nghiên cứu ngoại quốc được cấp giấy phép lưu trú với mục đích nghiên cứu nếu có các cơ sở nghiên cứu ở Đức tiếp nhận làm việc với mức lương tối thiểu 1.750 Euro/tháng (phiá Tây), 1.493,33 Euro/tháng (phiá Đông), nghĩa là thị trường tuyển dụng không chỉ ở Đức mà vươn ra toàn cầu. Cũng vậy các nhà khoa học hay giảng dạy ngoại quốc có kiến thức chuyên môn nổi trội hoặc ở vị trí lãnh đạo, muốn sang Đức làm việc, sẽ được cấp giấy phép lưu trú vĩnh viễn, không cần điều kiện mức lương tối thiểu (Điều 19 AufenthG). Người nước ngoài có bằng đại học được phép sang Đức tìm việc 6 tháng nếu tự bảo đảm được cuộc sống trong thời gian đó (Điều 18 AufenthG). Để ở lại làm việc tiếp tục, họ được cấp giấy phép lưu trú đặc biệt gọi là thẻ xanh EU, với điều kiện mức lương tối thiểu phải bằng 2/3 mức thu nhập giới hạn trên trong đóng bảo hiểm hưu trí nhà nước. Sau 33 tháng làm việc sẽ được cấp giấy phép lưu trú vô thời hạn (Điều 19a AufenthG). Ngay cả những người không được cấp thẻ xanh do không đạt mức lương tối thiểu cũng có thể được cấp giấy phép lưu trú để làm việc, nếu được cơ quan quản lý lao động đồng ý (Điều 27 BeschV). Người lao động bao giờ cũng gắn với gia đình, để thu hút lao động bậc cao yên cư lạc nghiệp thì phải bảo đảm gia đình họ được đoàn tụ. Người đoàn tụ cũng được cấp giấy phép lưu trú, làm việc và hưởng mọi tiêu chuẩn an sinh như mọi công dân Đức (Điều 2-15 BeschV).
Nhờ chính sách được luật hoá thành hành lang pháp lý trên, mà Đức hiện đứng hàng thứ 2 thế giới về nhập cư dôi, không chỉ thu hút chất xám thế giới mà còn bù đắp được vấn nạn dân số giảm 200.000 người mỗi năm do số người chết cao hơn số người sinh; hoà nhập họ như công dân Đức, nói cách khác công dân hoá lao động bậc cao nước ngoài.
Phần VI: Còn chính sách nước ta?
Nước ta chưa thể mong, và đủ khả năng công dân hoá lao động bậc cao nước ngoài như Đức vốn còn qúa xa vời, nhưng đối với lao động bậc cao người Việt và gốc Việt ở nước ngoài thì sao? Trong thời đại toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, không quốc gia nào dùng được biện pháp hành chính để điều khiển thị trường lao động như trong nền kinh tế quản lý tập trung cả, mà chỉ có thể điều chỉnh chính mình để thích ứng với thị trường đó. Khác hẳn mọi thị trường khác mang tính vật chất nằm ngoài con người, thị trường lao động nằm trong chính mỗi con người, vì vậy chỉ có thể thích ứng với thị trường đó khi nước ta hội nhập đầy đủ thể chế kinh tế, xã hội thế giới. Mà điều kiện tiên quyết làm nền tảng cho nó, bước đi đột phá đầu tiên, có thể coi như thí điểm, chính là chính sách hoà nhập lao động tái nhập cư, bảo đảm bình đẳng, không phân biệt người Việt trong hay ngoài nước, như nhà nước Đức không hề phân biệt đối với người Đức ở nước ngoài hay công dân nước ngoài sống ở Đức. Đơn thuần như kết hôn thôi, hoàn toàn riêng tư, không phải đại sự quốc gia gì, ở Đức người Đức đăng ký ở đâu người nước ngoài cũng đăng ký ở đó. Nhưng nước ta phân biệt, ai quốc tịch nước ngoài đều phải tới Sở Tư pháp tỉnh thành, kể cả gốc Việt, lẫn người Việt định cư, còn người dân chỉ cần tới ủy ban phường xã. Chẳng nhẽ chính giới ta không ai nhận ra hai thế giới người Việt trong một quốc gia Việt qua từng hiện tượng riêng lẻ như thế cộng lại – cái gọi là chính sách trên thực tế ? Chỉ cần đạt được điều kiện tiên quyết trên thôi thì đã thu hút được bao lao động bậc cao Việt ở nước ngoài. Một khi sống ở đâu làm gì không còn phải lưỡng lự do bị phân biệt, ắt họ sẽ tự động chọn „quê hương là chùm khế ngọt" mà không cần bất cứ một ưu đãi ưu ái lợi ích nào ở Việt Nam vốn không thể nào cao hơn các quốc gia hiện đại.

Thứ Hai, 8 tháng 9, 2014

Công thức thịnh vượng cho Việt Nam

Nguồn -http://vietnamnet.vn/vn/tuanvietnam/195820/cong-thuc-thinh-vuong-cho-viet-nam.html
Nhà báo Việt Lâm: Xin chào quý độc giả . Vươn lên thịnh vượng có lẽ là khát vọng chung của mọi dân tộc. Lâu nay các nhà chính trị, kinh tế trên toàn thế giới vẫn đi tìm câu trả lời: Vì sao có quốc gia thành công nhưng cũng có không ít nước thất bại mặc dù họ có cùng xuất phát điểm thậm chí chia sẻ những tương đồng về văn hóa và chính trị? Liệu có công thức chính sách nào cho mọi quốc gia trên đường đi đến phồn vinh hay không? Câu hỏi đó có lẽ càng trở nên đau đáu với mọi người dân Việt Nam. Để góp phần đi tìm câu trả lời cho câu hỏi rất quan trọng này, VietNamNet tổ chức thảo luận trực tuyến với ông Vũ Minh Khương, Tiến sỹ về kinh tế học phát triển tại Đại học Harvard và hiện là Giáo sư Đại học Quốc gia Singapore. Ông cũng là nhân vật quen thuộc với bạn đọc hơn 10 năm qua với các bài viết sắc sảo và tâm huyết về các vấn đề phát triển của Việt Nam.
- Trước hết, xin được bắt đầu cuộc thảo luận ngày hôm nay của chúng ta với những chia sẻ của Phó Trưởng ban Tuyên giáo Trung ương Vũ Ngọc Hoàng cách đây chưa lâu trên báo Tuổi Trẻ. "Cách đây bốn, năm mươi năm thì Việt Nam và Hàn Quốc có trình độ phát triển tương đương, sau mấy mươi năm tôi rà lại tư liệu thì thấy Hàn Quốc hiện có khoảng 90.000 người sống tại Việt Nam và Việt Nam hiện có 90.000 người sống tại Hàn Quốc chỉ khác nhau ở chỗ hầu hết người Hàn Quốc ở Việt Nam làm ông chủ còn người Việt Nam ở Hàn Quốc thì làm ôsin, nghe mà xót lòng!". Ông nghĩ sao về suy tư trên?
TS Vũ Minh Khương: Tôi rất đồng cảm với ý kiến sâu sắc và đầy xúc cảm của anh Vũ Ngọc Hoàng. Tôi cũng đã gặp anh Vũ Ngọc Hoàng và ấn tượng với con người đầy tâm huyết này. Chúng ta cùng chia sẻ sự trăn trở về vận mệnh của đất nước. Nhìn lại câu chuyện của Hàn Quốc, đây cũng là mối quan tâm chung của toàn thế giới. Bởi năm 1960, Hàn Quốc và Philippines tương đồng về mọi mặt. Thậm chí, Philippines lợi thế hơn rất nhiều như sự hỗ trợ của quốc tế, dân trí khá tốt, tiếng Anh thông thạo. Lúc đó mọi người dự báo rằng, một ngày nào đó Hàn Quốc sẽ kém xa Philippines và Philippines đã sẵn sàng cho sự phát triển thịnh vượng. Thế nhưng ba mươi năm sau, nhìn lại Hàn Quốc đã tổ chức được Olympic thế giới và khẳng định được vị thế một dân tộc đang trỗi dậy rất mạnh mẽ.
Vì sao dân tộc họ đi được nhanh như thế? Việc trì trệ có thể nhiều lý giải, nhưng để cất cánh thì rõ ràng có bài học rất lớn mà các nước muốn trỗi dậy phải học hỏi. Robert Lucas, một giáo sư Mỹ nổi tiếng, kinh tế gia đoạt giải Nobel có nói rằng: "nếu ta hiểu được thấu đáo con đường đi đến phồn vinh của một dân tộc thì chắc chắn ta sẽ làm ra được một cái thần kỳ khác tương tự như thế".
Hơn 10 năm nay sau khi rời công việc của Chính phủ (TS. Vũ Minh Khương từng là Chánh văn phòng UBND Thành phố Hải Phòng - xem thêm Chuyện về một TS Harvard người Việt), tôi cũng đã tìm hiểu với một lòng đau đáu như Việt Lâm vừa nói, rằng có một ngày nào đó không xa đâu, kỉ niệm 100 năm độc lập của Việt Nam ta, dân tộc mình sẽ ngẩng đầu hùng cường và có thể đi khắp thế giới để chia sẻ kinh nghiệm thành công. Chúng ta thoát khỏi chiến tranh và chấp nhận muôn vàn hi sinh để một ngày nào đó chúng ta có thể tự hào rằng chúng ta không chỉ vươn tới phồn vinh mà còn chia sẻ kinh nghiệm với thế giới làm sao để bồi đắp hòa bình, xây dựng tình hữu nghị và thịnh vượng chung.


Nhà báo Việt Lâm:Được biết ông cũng là tác giả của cuốn sách gây chú ý trong giới làm chính sách và nghiên cứu kinh tế với tựa đề "The Dynamics of Economic growth: Policy insights from comparative and analyses in Asia (tạm dịch: Những động lực của tăng trưởng kinh tế: Góc nhìn chính sách từ các phân tích so sánh ở châu Á). Qua phân tích mô hình phát triển của 16 quốc gia Châu Á, ông thấy có thể đúc kết những bài học nào?
TS. Vũ Minh Khương: Quá trình phát triển của các dân tộc tổng kết lại bằng tiếng Anh chỉ có 3 chữ "EEC". E thứ nhất là emotion, trong tiếng Anh người ta còn chơi chữ tốt hơn: "E stands for Energy" nghĩa là năng lượng, motion là chuyển động. Đây là cội nguồn và động lực trung tâm của mọi quá trình cải biến. Bởi vì phát triển kinh tế không phải chỉ là quá trình đầu tư đơn thuần mà đây là công cuộc cải biến vĩ đại đòi hỏi sự chuyển động rất lớn, nói cách khác con người phải có xúc cảm rất cao. Emotion có hai trạng thái quan trọng. Trạng thái thấp của emotion chỉ đơn thuần là cảm xúc, thường là nghi kỵ, bi quan, ức chế. Nếu chỉ đơn thuần giải phóng năng lượng xúc cảm ở trạng thái thấp như thế sẽ gây ra những rối loạn, thậm chí phức tạp và bất ổn. Chẳng hạn chúng ta thấy ở cấp độ quốc gia, công ty thì đơn từ kiện tụng triền miên.
Tuy nhiên, nếu nâng được xúc cảm lên cấp độ cao hơn, "aspiration", là khát vọng, là sự lo lắng cho vận mệnh dân tộc và ý thức trách nhiệm với tương lai. Khi xúc cảm ở dạng này được giải phóng ra thì năng lượng vô cùng lớn. Tổng thống Park Chun Hee khi khởi xướng cuộc cải cách cho Hàn Quốc, đã tuyên bố rõ: "Tôi mong muốn từng ngày làm cho Hàn Quốc đuổi kịp Nhật Bản".
Đó là lời thề thiêng liêng, lời tuyên thệ về phồn vinh của dân tộc. Động lực xúc cảm này truyền tải rất mạnh mẽ đến giới tinh hoa. Cái hay là trước đó, dưới thời Tổng thống Lý Thừa Vãn, các tập đoàn, công ty tham nhũng triền miên nhưng ông Park Chun Hee không bắt tù họ, mà mời họ cùng ngồi với Chính phủ để bàn bạc làm gì để dân tộc Hàn Quốc tiến lên, đối phó được với sự đe doạ của bên ngoài và tình thế thế giới đang khắc nghiệt như thế. Họ đã chụm đầu với nhau và đi những bước thần kỳ.
Phải nói rằng dân tộc Hàn Quốc ngày đấy còn đói khát, khổ sở hơn nước ta rất nhiều. Đầu tư nước ngoài không đáng kể, chỉ có một số trợ giúp nhất định của Mỹ và bồi thường chiến tranh của Nhật Bản. Nhưng dân tộc họ tràn đầy xúc cảm, khát vọng vươn lên, từ người lãnh đạo đến doanh nghiệp và người dân.
Chữ E thứ 2 là Enlightenment, nghĩa là độ khai sáng, mà độ khai sáng phải luôn luôn trau dồi, phải nhận thức rõ bối cảnh thế giới, tri thức về thế giới của mình phải thông suốt. Tư duy của mình phải học hỏi, mở mang, quý trọng đồng bào mình, quý trọng các cộng đồng xung quanh, phải liên tục học hỏi. Chúng ta có thể thấy rõ tầm quan trọng của sự khai sáng từ cuộc cải cách Minh Trị của Nhật Bản đến các cải cách của các nước sau này như Hàn Quốc, Singapore, thậm chí Trung Quốc với cải cách của Đặng Tiểu Bình. Điều quan trọng nhất là người lãnh đạo phải khai sáng, nếu không sẽ bị sa lầy vào những khủng hoảng không cần thiết như Nga hoặc Trung Quốc hiện nay. Những biểu hiện có thể thấy là họ hà khắc với dân tộc thiểu số, không coi trọng láng giềng, coi thường quy luật phát triển của lịch sử. Ngay cả trong chống tham nhũng, lẽ ra phải xây dựng những cơ chế khiến người ta không tham nhũng được, thay vì phát động đại chiến dịch "đả hổ diệt ruồi". Khi độ khai sáng có dấu hiệu đi xuống, chắc chắn đất nước ấy sẽ gặp khó khăn trên con đường phát triển trong thời gian tới.
Tôi muốn lưu ý rằng, enlightenment là yếu tố luôn luôn tự khai sáng chính mình chứ không phải anh có khai sáng rồi là yên tâm. Đây là quá trình học hỏi không ngừng, luôn luôn xem lại mình và nhìn lại người khác, nhìn sang người khác để thấy cái hay của người khác để học hỏi, cái dở của người khác để tránh. Đấy là trách nhiệm của người lãnh đạo, trách nhiệm của tri thức, trách nhiệm của doanh nghiệp, trách nhiệm của từng người dân.
Chữ C - chân kiềng thứ ba là Coordination - tính phối thuộc, đòi hỏi đội ngũ có năng lực. Động lực phát triển của một dân tộc phải được hiện thực hoá thành những chương trình hành động cụ thể, dưới sự dẫn dắt, điều hành và phối hợp của những con người cụ thể.
Nhà báo Việt Lâm:Vậy ông nhìn nhận ra sao về ba yếu tố này ở Việt Nam hiện  nay?
TS. Vũ Minh Khương: Tôi thấy tương đối vui vì xúc cảm và khai sáng của người Việt Nam mình trong vài chục năm đổi mới vừa qua có sự vượt bậc. Tôi có thể cảm nhận được điều này khi nói chuyện với những người dân bình thường, trí thức, doanh nghiệp và cả lãnh đạo Chính phủ. Tôi cho rằng đây là bước tiến rất quan trọng để làm tiền đề cho sự trỗi dậy của Việt Nam trong thời gian tới. Tuy nhiên, tính phối thuộc sẽ là trở ngại, thách thức lớn cho Việt Nam trong thời gian tới.
Tính phối thuộc thế nào cho chặt chẽ phải dựa vào chiến lược phát triển. Chiến lược phát triển tức là mình đi đến đâu trong vòng 30 năm tới bởi thời gian gấp rút lắm rồi. Nếu một dân tộc hi sinh hàng triệu con người, mất mát hàng thập kỷ vì chiến tranh mà năm 2045 lại tỏa đi các nơi làm thuê, tôi cho rằng chưa xứng đáng là đã sản sinh ra những con người vĩ đại như Trần Hưng Đạo, Bác Hồ (Hồ Chí Minh), Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Tôi thấy chúng ta phải xứng đáng hơn với thế hệ đi trước.
Xét những trùng hợp thú vị về những dấu mốc thời gian quan trọng của Việt Nam, 1945, 1975 thì nếu năm 2015 chúng ta khởi đầu bằng công cuộc cải cách vĩ đại như thế, để ba thập kỷ tới, vào năm 2045 tròn 100 năm thành lập nước, Việt Nam sẽ thực sự cất cánh. Tôi tin rằng chúng ta có thể làm được điều thần kỳ đó. Tôi đã các cuộc nói chuyện với một số nhà lãnh đạo Chính phủ về những vấn đề mà chúng ta đang trao đổi và càng thấy tự tin hơn. Bởi tôi thấy chúng ta có những con người sẵn sàng đảm đương và làm hết lòng với những công việc được phân công. Điều đó rất đáng quý.
Xoay lợi ích nhóm thành lợi ích dân tộc
Nhà báo Việt Lâm:Đúng là như ông nói, các yếu tố về cảm xúc và khai sáng đã hiện diện đây đó. Ở nhiều nước khác, có khi các nhà lãnh đạo phải lo lắng trước tình trạng thờ ơ của dân chúng với chính trị nhưng ở Việt Nam, người dân rất quan tâm và trăn trở trước thời cuộc. Chúng ta đã từng chứng kiến hàng triệu ý kiến góp ý cho văn kiện Đại hội Đảng hay đường lối phát triển của đất nước. Mới đây thôi, cũng có hàng chục triệu ý kiến tham gia thảo luận việc sửa đổi Hiến pháp. Chúng ta cũng được chứng kiến không ít nhà lãnh đạo đã chia sẻ suy tư về khoảng cách phát triển giữa VN với thế giới. Rõ ràng đang có một nguồn cảm xúc rất cháy bỏng cho sự trỗi dậy của đất nước. Nhưng mặt trái của nó lại là nếu như năng lượng cảm xúc không hoá giải thành hành động cụ thể thì có thể dẫn tới sự mệt mỏi, hoài nghi, thậm chí một ngày nào đó sẽ biến thành sự vô cảm. Ông nghĩ sao về nguy cơ này?
TS. Vũ Minh Khương: Tôi cảm nhận được nguy cơ này đang cận kề. Đây là lúc cần nhất đến vai trò người lãnh đạo. Tất nhiên giới trí thức, giới doanh nhân cũng như tất cả mọi tầng lớp nhân dân đều phải có trách nhiệm trong công cuộc đổi thay này của đất nước. Nhưng rõ ràng người lãnh đạo phải là người khởi xướng. Vai trò của người lãnh đạo khởi đầu từ đâu tôi sẽ bàn sau nhưng trước khi đi vào bước cụ thể chúng ta phải thống nhất với nhau về nguyên lý hành động đã.
Về nguyên lý, chúng ta hoàn toàn có thể biến những hạn chế hiện nay thành sức mạnh. Chẳng hạn như ba vấn đề mà người ta cứ hay than phiền ở VN hiện nay, như "bệnh thành tích", lợi ích nhóm hay chủ nghĩa bảo thủ. Nếu có một chiến lược tốt, hoàn toàn có thể xoay chuyển chúng theo hướng tích cực.
Ví dụ như bệnh thành tích. Ở nước ngoài người ta nói bệnh thành tích là tốt chứ, bởi vì người ta cố gắng làm để đạt được chỉ số tốt. Vậy thay vì chạy theo điểm số, tại sao không chọn thành tích đem lại sự đổi thay cho đất nước, tôn trọng nhân dân, dân chủ hóa như là thành tích tối thượng mà lãnh đạo các cấp cũng như nhân dân được hưởng.
Nhóm lợi ích xét ở mặt nào đó cũng có ý nghĩa tích cực, bởi lẽ con người ai cũng có lợi ích riêng. Vậy nhà lãnh đạo làm sao xoay lợi ích riêng, lợi ích nhóm thành lợi ích quốc gia, giống như để cho Huyndai, Samsung, LG không chỉ phồn vinh thịnh vượng mà còn đóng góp chung cho sự phát triển của đất nước. Cái đấy thực ra chỉ cần một cú click để xoay trục nếu có sự phối thuộc tốt.
Thứ ba, chúng ta hay than phiền nhóm này, nhóm kia bảo thủ. Thế nhưng chính Đảng Bảo thủ của bà Thatcher lại là người khởi xướng cuộc cải cách nước Anh một cách kỳ vĩ bởi họ có nguyên lý bảo thủ đảm bảo sự tồn vong của dân tộc họ. Chúng ta cũng có những nguyên lý bảo thủ, chứ không phải nói cứ học Tây hết đi là không được. Vấn đề là xoay những nguyên lý đó theo hướng phục vụ lợi ích dân tộc, vì một mục tiêu cháy bỏng đưa đất nước tới hùng cường.
(còn tiếp)
Tuần Việt Nam