Xin từ chức
- câu nói giản dị, ngắn gọn, nhưng xem ra có sức nặng ngàn cân, hay nói sâu sa
hơn thì có sức nặng của cả một đời người.
Muốn từ chức, khó lắm!
Để có một vị trí trong bộ máy công quyền,
người ta phải phấn đấu bền bỉ từ lúc đầu xanh tuổi trẻ. Phải học tập, phải rèn
luyện, phải qua đủ các lớp bồi dưỡng kiến thức chính trị, kinh tế, văn hóa; và
phải giữ gìn đủ mọi thứ. Tóm lại là bên cạnh việc học tập, rèn luyện nâng cao
trình độ thì người ta còn phải hy sinh đi rất nhiều thứ và trước hết phải là
người được tín nhiệm… Ấy là chưa kể không ít người từng vào sinh ra tử, đổ máu
cho sự nghiệp giải phóng dân tộc và rõ ràng là họ có bề dày kinh nghiệm, có
phẩm chất chính trị đã được tôi luyện, thử thách.
Quá trình đề bạt cán bộ của ta là “tuần tự
nhi tiến”, là mất nhiều năm, được sắp xếp, quy hoạch một cách có bài bản. Và
việc bổ nhiệm được tiến hành theo những trình từ, thủ tục khắt khe, chứ không
phải bỗng chốc mà lên được ghế nọ ghế kia…
Để có được chức vụ đó là gian khổ lắm (mà
chức vụ càng cao thì đòi hỏi sự hy sinh càng lớn); là tốn thời gian lắm.
Nay bảo người ta nói: “Tôi xin từ chức” -
đâu có dễ.
Ấy là cái khó thứ nhất.
Có được chức vụ thì kèm theo là không ít
quyền lợi và thậm chí là “đặc lợi” (ngoài lương). Nào là được sử dụng xe công
như xe riêng, đi thoải mái mà không lo mua xăng, không mất tiền chăm sóc xe.
Rồi được ưu tiên cấp đất, cấp nhà, hoặc được mua nhà với giá ưu đãi, hoặc cộng
“điểm” năm công tác… Và vô vàn các thứ bổng lộc khác. Thứ thì do cơ chế, do
chính sách; thứ thì do quan hệ… Cho nên không lấy gì làm lạ, khi có nhiều cán
bộ vẫn than vãn rằng lương thấp quá, nhưng họ vẫn thừa tiền đi chơi gof, vẫn có
trang trại, vẫn có biệt thự, vẫn có xe sang…
Cho nên, từ bỏ chức vụ, có nghĩa là phải
từ bỏ những quyền lợi vật chất mà họ đang hưởng.
Việc ấy đâu có dễ.
Ấy là cái khó thứ hai.
“Một người làm quan, cả họ được nhờ”, câu
nói đó từ xưa đã đúng, và bây giờ càng đúng. Một người làm quan to, nhiều khi
không chỉ “cả họ” mà còn cả huyện, cả tỉnh và vô số bạn bè, chiến hữu khác nữa.
Một người làm quan, có uy thì không biết bao nhiêu người khác dựa vào cái
“bóng” sừng sững ấy để làm giàu, để thăng quan, tiến chức. Chỉ có điều, những
trường hợp dựa “bóng” này, không thể “chỉ mặt, đặt tên” được. Thiên hạ biết
đấy, hiểu đấy, nhưng chẳng thể nào “nói có sách, mách có chứng”. Nay người có
chức từ chức, cái “bóng” biến mất, thế thì đám con cháu, họ hàng, chiến hữu kia
nấp vào đâu? Cho nên tất cả phải xúm lại, giữ cho cái “bóng”.
Để từ bỏ sự “tỏa bóng”, cá nhân một người
không phải là không thể làm được. Nhưng còn bao nhiêu người khác nữa chứ? “Mình
vì mọi người” mà!
Cho nên phải cố mà giữ.
Ấy là cái khó thứ ba.
Người Việt mình vốn thích danh, thậm chí
là danh hão. Cho nên bây giờ mới nảy nòi ra chuyện đua nhau chạy bằng cấp để
ghi vào cạc-vi-dít cho oai. Và vì thế mới có câu, nào là: “Mua danh ba vạn, bán
danh ba đồng”, rồi: “Trăm năm bia đá thì mòn. Ngàn năm bia miệng hãy còn trơ
trơ”… Người có chút danh, nhiều khi trở thành niềm tự hào, là chỗ dựa tinh thần
không chỉ cho người thân trong gia đình, mà còn cả họ hàng, cả vùng quê…
Cho nên khi tuyên bố từ chức, có nghĩa là
phải bỏ cái danh mà mình đã khổ công xây dựng bấy lâu, phải trải trăm đắng ngàn
cay mới có được… Đâu có dễ.
Ấy là cái khó thứ tư.
Cứ xem gương bao nhiêu cán bộ khi đương
chức, đương quyền thì nói chuyện “rời ghế” nhẹ như lông hồng và rất cao đạo,
coi chức tước là phù vân, coi danh lợi là như gió thoảng… Nhưng khi sắp đến lúc
phải về hưu thì họ vội vàng, cuống quýt “chạy” để ở lại. Họ xin xỏ, nằn nèo và
lôi ra đủ mọi lý do để mong cấp trên giữ lại cho thêm thời gian. Nhiều thì vài
ba năm, ít thì vài ba tháng… Và không ít người, khi rời ghế về nghỉ theo chế độ
thì đã bị sốc nặng…( Nghỉ rồi lãnh lương hưu vẫn giữ phòng làm việc thạm chí cả con dấu của cơ quan )
Đấy, chuyện về nghỉ hưu mà còn không đơn
giản như vậy, huống chi xin “từ chức”.
Ấy là cái khó thứ năm.
Ở nước ta vẫn đang duy trì chế độ tập thể
lãnh đạo và cá nhân phụ trách, người đứng đầu phải làm theo Nghị quyết, theo
những kế hoạch do tập thể đề ra. Cho nên, dấu ấn cá nhân ở trong mỗi đơn vị
thường là không cao,thậm chí là nhạt nhòa. Chỉ có những ai dám quyết, dám làm,
dám chịu và luôn mang tâm thế: “Đã làm thì làm cho ra hồn, còn nếu không, về
ngay”, thì mới có thể có những quyết đoán, mạnh mẽ, mang tính đột phá.
Những người như thế không phải không có
nhưng rất hiếm. Cho nên, mỗi khi xảy ra việc gì rất khó có thể quy trách nhiệm
cụ thể cho cá nhân. Và cái gọi là “trách nhiệm của người đứng đầu” ở ta hiện
nay còn rất mơ hồ.
Vậy mà lại đòi người ta phải từ chức khi
có vụ việc gì xảy ra ở ngành ấy? Đâu có đơn giản.
Ấy là cái khó thứ sáu.
Với sáu cái khó như vậy Chắc là chưa hết
nhưng hãy tạm thế - mà đòi hỏi người có chức vụ phải sẵn sàng từ chức thì xem
ra nói thế chứ nói nữa cũng không ai muốn từ chức. Vì vậy, muốn để cho người
cán bộ sẵn sàng từ chức khi thấy mình không làm được việc, hoặc không đáp ứng
được sự phát triển của thời cuộc thì cần phải có những cơ chế nào đó và đặc
biệt là phải làm cho người cán bộ đang giữ chức vụ thấy rằng: Người cán bộ
không phải là hòn đất sét được nặn lên thành ông Bụt và khi đã đặt lên bệ rồi
thì cứ thờ mãi như thế. Chức vụ đó có thể có ngày hôm nay, nhưng ngày mai mất
đi thì đó cũng là việc bình thường. Và một điều rất quan trọng là cái chức vụ
ấy không mang lại nhiều lợi lộc
về vật chất.
Tất nhiên, với cách suy nghĩ của người Á
Đông và với cơ chế sử dụng cán bộ như hiện nay, việc vận động hoặc để người
đứng đầu tự nguyện từ chức xem ra hơi bất khả thi.
Diễn đàn dân trí
Thứ Sáu, 16/11/2012 - 11:45
…………………………………