Thứ Ba, 27 tháng 11, 2012

Muốn từ chức, khó lắm!


     Xin từ chức - câu nói giản dị, ngắn gọn, nhưng xem ra có sức nặng ngàn cân, hay nói sâu sa hơn thì có sức nặng của cả một đời người.
Muốn từ chức, khó lắm!
                         
Để có một vị trí trong bộ máy công quyền, người ta phải phấn đấu bền bỉ từ lúc đầu xanh tuổi trẻ. Phải học tập, phải rèn luyện, phải qua đủ các lớp bồi dưỡng kiến thức chính trị, kinh tế, văn hóa; và phải giữ gìn đủ mọi thứ. Tóm lại là bên cạnh việc học tập, rèn luyện nâng cao trình độ thì người ta còn phải hy sinh đi rất nhiều thứ và trước hết phải là người được tín nhiệm… Ấy là chưa kể không ít người từng vào sinh ra tử, đổ máu cho sự nghiệp giải phóng dân tộc và rõ ràng là họ có bề dày kinh nghiệm, có phẩm chất chính trị đã được tôi luyện, thử thách.
Quá trình đề bạt cán bộ của ta là “tuần tự nhi tiến”, là mất nhiều năm, được sắp xếp, quy hoạch một cách có bài bản. Và việc bổ nhiệm được tiến hành theo những trình từ, thủ tục khắt khe, chứ không phải bỗng chốc mà lên được ghế nọ ghế kia…
Để có được chức vụ đó là gian khổ lắm (mà chức vụ càng cao thì đòi hỏi sự hy sinh càng lớn); là tốn thời gian lắm.
Nay bảo người ta nói: “Tôi xin từ chức” - đâu có dễ.
Ấy là cái khó thứ nhất.
Có được chức vụ thì kèm theo là không ít quyền lợi và thậm chí là “đặc lợi” (ngoài lương). Nào là được sử dụng xe công như xe riêng, đi thoải mái mà không lo mua xăng, không mất tiền chăm sóc xe. Rồi được ưu tiên cấp đất, cấp nhà, hoặc được mua nhà với giá ưu đãi, hoặc cộng “điểm” năm công tác… Và vô vàn các thứ bổng lộc khác. Thứ thì do cơ chế, do chính sách; thứ thì do quan hệ… Cho nên không lấy gì làm lạ, khi có nhiều cán bộ vẫn than vãn rằng lương thấp quá, nhưng họ vẫn thừa tiền đi chơi gof, vẫn có trang trại, vẫn có biệt thự, vẫn có xe sang…
Cho nên, từ bỏ chức vụ, có nghĩa là phải từ bỏ những quyền lợi vật chất mà họ đang hưởng.
Việc ấy đâu có dễ.
Ấy là cái khó thứ hai.
“Một người làm quan, cả họ được nhờ”, câu nói đó từ xưa đã đúng, và bây giờ càng đúng. Một người làm quan to, nhiều khi không chỉ “cả họ” mà còn cả huyện, cả tỉnh và vô số bạn bè, chiến hữu khác nữa. Một người làm quan, có uy thì không biết bao nhiêu người khác dựa vào cái “bóng” sừng sững ấy để làm giàu, để thăng quan, tiến chức. Chỉ có điều, những trường hợp dựa “bóng” này, không thể “chỉ mặt, đặt tên” được. Thiên hạ biết đấy, hiểu đấy, nhưng chẳng thể nào “nói có sách, mách có chứng”. Nay người có chức từ chức, cái “bóng” biến mất, thế thì đám con cháu, họ hàng, chiến hữu kia nấp vào đâu? Cho nên tất cả phải xúm lại, giữ cho cái “bóng”.
Để từ bỏ sự “tỏa bóng”, cá nhân một người không phải là không thể làm được. Nhưng còn bao nhiêu người khác nữa chứ? “Mình vì mọi người” mà!
Cho nên phải cố mà giữ.
Ấy là cái khó thứ ba.
Người Việt mình vốn thích danh, thậm chí là danh hão. Cho nên bây giờ mới nảy nòi ra chuyện đua nhau chạy bằng cấp để ghi vào cạc-vi-dít cho oai. Và vì thế mới có câu, nào là: “Mua danh ba vạn, bán danh ba đồng”, rồi: “Trăm năm bia đá thì mòn. Ngàn năm bia miệng hãy còn trơ trơ”… Người có chút danh, nhiều khi trở thành niềm tự hào, là chỗ dựa tinh thần không chỉ cho người thân trong gia đình, mà còn cả họ hàng, cả vùng quê…
Cho nên khi tuyên bố từ chức, có nghĩa là phải bỏ cái danh mà mình đã khổ công xây dựng bấy lâu, phải trải trăm đắng ngàn cay mới có được… Đâu có dễ.
Ấy là cái khó thứ tư.
Cứ xem gương bao nhiêu cán bộ khi đương chức, đương quyền thì nói chuyện “rời ghế” nhẹ như lông hồng và rất cao đạo, coi chức tước là phù vân, coi danh lợi là như gió thoảng… Nhưng khi sắp đến lúc phải về hưu thì họ vội vàng, cuống quýt “chạy” để ở lại. Họ xin xỏ, nằn nèo và lôi ra đủ mọi lý do để mong cấp trên giữ lại cho thêm thời gian. Nhiều thì vài ba năm, ít thì vài ba tháng… Và không ít người, khi rời ghế về nghỉ theo chế độ thì đã bị sốc nặng…( Nghỉ rồi lãnh lương hưu vẫn giữ phòng làm việc thạm chí cả con dấu của  cơ quan )
Đấy, chuyện về nghỉ hưu mà còn không đơn giản như vậy, huống chi xin “từ chức”.
Ấy là cái khó thứ năm.
Ở nước ta vẫn đang duy trì chế độ tập thể lãnh đạo và cá nhân phụ trách, người đứng đầu phải làm theo Nghị quyết, theo những kế hoạch do tập thể đề ra. Cho nên, dấu ấn cá nhân ở trong mỗi đơn vị thường là không cao,thậm chí là nhạt nhòa. Chỉ có những ai dám quyết, dám làm, dám chịu và luôn mang tâm thế: “Đã làm thì làm cho ra hồn, còn nếu không, về ngay”, thì mới có thể có những quyết đoán, mạnh mẽ, mang tính đột phá.
Những người như thế không phải không có nhưng rất hiếm. Cho nên, mỗi khi xảy ra việc gì rất khó có thể quy trách nhiệm cụ thể cho cá nhân. Và cái gọi là “trách nhiệm của người đứng đầu” ở ta hiện nay còn rất mơ hồ.
Vậy mà lại đòi người ta phải từ chức khi có vụ việc gì xảy ra ở ngành ấy? Đâu có đơn giản.
Ấy là cái khó thứ sáu.
Với sáu cái khó như vậy Chắc là chưa hết nhưng hãy tạm thế - mà đòi hỏi người có chức vụ phải sẵn sàng từ chức thì xem ra nói thế chứ nói nữa cũng không ai muốn từ chức. Vì vậy, muốn để cho người cán bộ sẵn sàng từ chức khi thấy mình không làm được việc, hoặc không đáp ứng được sự phát triển của thời cuộc thì cần phải có những cơ chế nào đó và đặc biệt là phải làm cho người cán bộ đang giữ chức vụ thấy rằng: Người cán bộ không phải là hòn đất sét được nặn lên thành ông Bụt và khi đã đặt lên bệ rồi thì cứ thờ mãi như thế. Chức vụ đó có thể có ngày hôm nay, nhưng ngày mai mất đi thì đó cũng là việc bình thường. Và một điều rất quan trọng là cái chức vụ ấy không mang lại nhiều lợi lộc về vật chất.
Tất nhiên, với cách suy nghĩ của người Á Đông và với cơ chế sử dụng cán bộ như hiện nay, việc vận động hoặc để người đứng đầu tự nguyện từ chức xem ra hơi bất khả thi.                                                                
Diễn đàn dân trí
Thứ Sáu, 16/11/2012 - 11:45
…………………………………
            

Chủ Nhật, 25 tháng 11, 2012

Bài tập làm văn về sự im lặng đáng sợ của người tốt


Đỗ Thị Ngọc Anh (Lớp 11chuyên Anh trường THPT chuyên Nguyễn Trãi - đường Ngô Quyền - thành phố Hải Dương - tỉnh Hải Dương)                                                                                                                                          Đề bài:
Matin Luther King từng nói: "Trong thế giới này, chúng ta không chỉ xót xa vì những hành động và lời nói của người xấu mà còn cả vì sự im lặng đáng sợ của người tốt". Anh (chị) có suy nghĩ gì về ý kiến trên?
                                                               
                                                               Ảnh minh họa.
Bài làm
Cách đây không lâu, cư dân mạng truyền tay nhau một đoạn clip tại một bến xe buýt ở Hà Nội. Nhân vật trong clip là một thanh niên gầy gò, gương mặt vô cùng khắc khổ, đã bị kẻ gian lấy cắp chiếc ví. Dẫu rằng, chiếc ví ấy không hề có tiền mà chỉ có một giấy phép lái xe, nhưng giấy phép lái xe này lại là một vật vô cùng có giá trị với người thanh niên ấy nên anh ta thảm thiết nhìn ra xung quanh van nài kẻ trộm: “Cho em xin…không có tiền đâu, chỉ có bằng lái xe thôi…”. Vậy mà trước hoàn cảnh đáng thương của anh thanh niên, không ai dám lên tiếng, không ai hỏi han hay có ý giúp đỡ người đàn ông tội nghiệp. Câu chuyện này để lại trong tôi nhiều suy nghĩ, suy nghĩ về cách sống và thái độ ứng xử của con người trong xã hội hiện nay. Cũng bàn về vấn đề này., Martin Lutherking - nhà hoạt động nhân quyền Mĩ gốc Phi, từng đoạt giải Nobel Hòa Bình năm 1964, cho rằng: “Trong thế giới này, chúng ta không chỉ xót xa trước lời nói và hành động của kẻ xấu mà còn cả vì sự im lặng đến đáng sợ của người tốt.”
Con người sinh ra và lớn lên, họ luôn đối diện với nhiều cung bậc cảm xúc, nhiều trạng thái khác nhau trong cuộc sống. Xót xa là một cảm giác đau đớn, nuối tiếc vô cùng sâu sắc. Còn im lặng tức là không có hành động hay phản ứng cụ thể trước những tình huống, sự việc đáng lẽ cần có thái độ, có phản ứng. Sự im lặng ấy trở nên đáng sợ khi nó là một biểu hiện bất thường trong cách ứng xử của con người có thể gây ra cảm giác bất an cho người khác. Thực tế, chúng ta sống trong một xã hội luôn tồn tại hai loại người: kẻ xấu là người kém đạo đức, đáng khinh ghét, có thể gây hại, mang lại những điều không hay. Lời nói và hành động của họ đều không phù hợp với các quy tắc chuẩn mực đạo đức, làm tổn thương người khác và có những tác động tiêu cực đến xã hội. Ngược lại, người tốt luôn có những biểu hiện đáng quý về tư cách đạo đức, về thái độ hành vi trong các mối quan hệ và được mọi người đánh giá cao. Như vậy, thông qua câu nói của mình, Martin Lutherking muốn gửi gắm tới người đọc một thông điệp sâu sắc: Nỗi đau đớn nuối tiếc do những lời nói và hành động của người xấu không xót xa bằng việc người tốt không có hành động thái độ hay bất kì phản ứng nào trước việc làm sai trái ấy.
Khi còn nhỏ, ta không mấy khi quan tâm đến những thứ xung quanh mình mà chỉ thường quan tâm tới chính bản thân: Hôm nay sẽ được ăn món gì, sẽ học gì, sẽ có phim hoạt hình gì, có truyện tranh gì sắp ra…Lớn lên một chút, bước vào tuổi biết nghĩ, ta thấy bạn bè quay cóp trong giờ kiểm tra trong khi chính mình phải học cật lực, ta thấy bãi gửi xe gần trường thu 3.000 đồng một chiếc xe đạp trong khi đó quy định là 2.000 đồng. Rồi ta còn thấy người ta vượt đèn đỏ, lượn lách đánh võng, thấy đám côn đồ dối trá, lừa lọc bà cụ bán nước ven đường. Chứng kiến những hành động như thế, thử hỏi ai mà không bất bình? Bởi lẽ, những hành động ấy là biểu hiện của sự thấp kém về nhận thức và ý thức, nó gây ra những tổn thất cả về vật chất và tinh thần cho mọi người và xã hội. Hơn thế nữa, sự tồn tại của những lời nói và hành động của kẻ xấu cũng là biểu hiện của sự bất ổn của xã hội ở một mức độ nhất định.
Xót xa trước hành động của người xấu là lẽ tất nhiên. Nhưng tại sao chúng ta lại xót xa hơn trước sự im lặng đến đáng sợ của người tốt? Trong suy nghĩ của mọi người, người tốt luôn có tư cách đạo đức, có khả năng và trách nhiệm trong việc thực hiện những hành vi đem lại lợi ích cho cộng đồng xã hội. Với phẩm chất vốn có ấy,  họ không thể nào không có phản ứng trước cái xấu, cái tiêu cực, những điều “chướng tai gai mắt” trong xã hội. Vậy nên, thái độ im lặng của họ chính là một biểu hiện bất thường. Sự im lặng ấy xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau. Họ im lặng bởi họ bất lực khi thấy phản ứng của mình không hề có hiệu quả. Họ im lặng khi cảm thấy cô độc, lạc lõng vì những việc tốt mình làm không nhận được sự ủng hộ của số đông. Chăm lo làm kinh tế khiến đời sống khá giả, nhưng mê mải quá nhiều lại đẩy người ta ra xa nhau hơn, lo cho lợi ích của mình hơn là lợi ích người khác. Có rất ít người sẽ la lên khi thấy một tên trộm đang trộm xe trên vỉa hè hay đứng ra bênh vực nạn nhân trong một vụ va chạm trên đường phố - nhất là kẻ gây sự lại là đám côn đồ, lưu manh. Người tốt im lặng khi họ mất niềm tin, khi họ thấy kết quả của những lời nói, hành động xuất phát từ lương tâm và trách nhiệm lại trở thành sự coi nhẹ, chế nhạo của người khác, thậm chí còn gây ra những tổn thương không đáng có cho chính họ. Quay trở lại câu chuyện của anh thanh niên trên chuyến xe buýt không ít người cảm thấy buồn và xót xa. Xung quanh đó có rất nhiều người đang chờ xe, nhưng đáp lại lời khẩn cầu của anh thanh niên là sự im lặng. Cuối cùng người đàn ông bơ vơ đành phải bước đi với gương mặt tuyệt vọng. Rõ ràng, muốn bắt tên trộm kia không phải là chuyện khó. Tài xế đóng cửa xe lại, yêu cầu tất cả mọi người bảo quản hành lí, gọi điện cho cơ quan chức năng khám xét từng người. Nhưng sao không ai dám lên tiếng? Phải chăng chúng ta không dám bênh vực người lương thiện, phải chăng nỗi sợ hãi cái xấu, cái ác đang giết chết dần lương tâm chúng ta? Xét cho cùng, im lặng vì bất kì lí do nào đi nữa thì đó cũng là biểu hiện của sự tha hóa ở mỗi cá nhân và cho thấy dấu hiệu bất ổn của xã hội. Nói cách khác, khi người tốt im lặng là khi xã hội đang đứng trên bờ vực của sự phá sản những giá trị tinh thần.
Vậy làm thế nào để người tốt không im lặng nữa? Hãy trao quyền và khuyến khích người tôt cất lên tiếng nói của mình bằng cách lắng nghe tiếp thu ý kiến và sẵn sàng sửa đổi theo những ý kiến đóng góp đúng đắn của họ. Hãy đưa ra những chính sách bảo vệ để tránh tối đa những tổn thất mỗi khi người tốt cất tiếng nói.Chúng ta không phải lúc nào cũng có thể đứng lên bảo vệ chính nghĩa, ủng hộ cái tốt điều hay, bởi có thể cá nhân ấy không đủ sức mạnh. Nhưng không có nghĩa chúng ta phải thỏa hiệp với cái xấu, cái ác. Bởi ngay cả khi không đủ sức mạnh để thay đổi nó, ta vẫn luôn có đủ quyết tâm để không đồng tình và không bị nó lôi kéo. Chúng ta đang sống trong một xã hội mà những mối quan hệ với cộng đồng đã trở nên không thể thiếu. Không ai có thể đơn độc trong cuộc sống được, vì vậy, trong quá trình đấu tranh chống lại cái ác, cần xây dựng những hiệp hội của những người cùng chí hướng mục đích để phấn đấu cho sự phát triển chung của xã hội, để người tốt có chỗ đứng và điểm tựa. Khi đó họ sẽ không ngần ngại bày tỏ ý kiến quan điểm của mình. Tất cả những gì chúng ta cần làm là sống dũng cảm, là làm những điều tốt đẹp cho cuộc sống, và để nó tự nhân bản.
Ý kiến của Martin Lutherking là một lời cảnh báo nghiêm khắc để cảnh tỉnh con người trước nguy cơ về sự băng hoại của những giá trị tinh thần, biểu hiện những hành vi ứng xử của con người trong đời sống. Có người đã nói: “Lùi bước cho cái xấu cũng là một tội ác”. Hãy nhớ rằng, cái xấu chỉ mạnh khi nó thấy cái tốt dường như đồng tình với nó. Và nó sẽ bị rút hết không khí và tắt thở khi chúng ta nhìn nó với ánh mắt khinh miệt và xa lánh. Đây là một ý kiến thể hiện tinh thần trách nhiệm đối với sự phát triển chung của toàn xã hội. Đó cũng là một thái độ đúng, tích cực, xuất phát từ nhận thức về yêu cầu đối với hành vi của con người trong một xã hội tiến bộ, nhân văn. Khi đơn độc một mình, người tốt sẽ trở nên yếu đuối, nhu nhược và thất bại cay đắng. Họ chỉ đủ mạnh khi họ kết nối với nhau trong một tập thể, trong một xã hội biết coi trọng giá trị nhân văn đích thực của con người. Trước sự im lặng của người tốt, xót xa là điều khó tránh song điều đó là chưa đủ mà ta còn phải hành động, phải có những giải pháp tích cực để thay đổi hiện trạng đó trong mỗi cá nhân con người và toàn xã hội.
Mỗi chúng ta luôn mong muốn xây dựng một xã hội ngày càng tốt đẹp hơn, mà ở đó con người được sống trong yên vui hạnh phúc. Hãy coi câu nói của Martin Lutherking là một bài học, hãy xắn tay áo lên và hành động ngay từ hôm nay, bắt đầu từ những việc nhỏ bé nhất mà chúng ta có thể. Tôi tin rằng điều đó không phụ thuộc vào tuổi tác, mạnh yếu hay giàu nghèo, mà bất kì ai cũng làm được. Đừng bao giờ thỏa hiệp và làm ngơ trước cái xấu, bạn nhé!


Thứ Năm, 22 tháng 11, 2012

Việt Nam tiếp cận và hội nhập thế giới thế nào?

Qua kinh nghiệm của cha ông ta, cũng như học từ những trải nghiệm của bản thân, tôi tạm nghĩ có thể thu gọn lại thành sáu chữ và một phương châm: Tự tin - Tự trọng - Tự cường - và "thêm bạn bớt thù."
Toàn cầu hóa không phải là câu chuyện mới. Cái mới, cái đáng nói ở đây là một khía cạnh khác: chúng ta cần phải tiếp cận với thế giới ngày nay như thế nào?
Tự tin vào chính mình.
Thời buổi hoàn cầu hóa bây giờ vẫn còn một yếu tố không khác gì những thời trước: cá nhân nào cũng muốn đạt được một cuộc sống dễ chịu hơn, tìm được một người đồng hành như ý, và muốn cho tương lai con cháu mình sáng sủa hơn chính mình.
Cái khác ở thời điểm này là ta phải cạnh tranh với những người khắp thế giới chứ không còn chỉ cần vượt qua được người cùng làng, cùng tỉnh hay cùng một nước nữa. Nếu khi xưa đỗ xong trạng nguyên là cả đời êm ấm rồi thì ngày nay lập nên một cơ nghiệp đồ sộ trong nước cũng vẫn lo có ai "bên ngoài" dòm ngó và muốn "nuốt trửng" mình hay sẽ cạnh tranh đến khi ta sạt nghiệp.
Ta chỉ cần nhìn vào các tập đoàn "nước ngoài" đang thao túng một số các thị trường trong nước thì đủ rõ. Từ quả cam, miếng thịt ta ăn hàng ngày cho tới các viên thuốc ta cần khi đau yếu; ngay cả những món hàng vốn do chính đồng bào ta sản xuất từ nhiều thế kỷ như vải vóc, tơ lụa, bàn tủ, đồ gốm... cũng không cạnh tranh nổi với các mặt hàng tương tự từ nước ngoài. Kể chi đến các công ty địa ốc, các cơ sở bảo hiểm, các doanh nghiệp "đa cấp", và chắc cũng chẳng bao lâu nữa sẽ đến lượt các ngân hàng... liệu có đứng vững ngay trong "sân nhà" không?
Giải pháp duy nhất có thể giúp ta đứng vững là giáo dục, từ trên xuống dưới và liên tục suốt đời. Nếu ngày xưa cách làm ruộng không thay đổi trong nhiều thế kỷ, và các câu ca dao cũng đủ để dạy cho thế hệ sau biết thích nghi với thời tiết, mùa vụ, v.v... thì ngày nay công nghệ tin học, các khám phá mới về sinh học, y học ...  và ngay cả những biến cố xảy ra ở những nước ít khi ta nghe tới cũng buộc chúng ta phải tỉnh táo lắm mới có thể bắt kịp thiên hạ.
Ta đứng dậm chân là ta thụt lùi. Giáo dục vì thế cũng phải luôn luôn tỉnh táo, uyển chuyển để không bị tụt hậu
Tự trọng, yêu quí xã hội và tôn vinh dân tộc mình.
Năm thế kỷ vừa qua, người Âu châu đã bá chủ toàn cầu, đến nỗi người Anh có thể khoe rằng "mặt trời không hề lặn trên quốc kỳ của chúng tôi."  Và điều ấy cũng không phải là ngoa.
Ở Việt Nam, nước Pháp chỉ gửi vài nghìn quân, một ít chiến hạm.. và thế là ta lại đứng trước cảnh mất nước lần nữa.  Đồng bào ta đã trả một giá rất đắt cho bài học "bế quan tỏa cảng", chỉ vì cái giáo dục của ta thời phong kiến đã bịt mắt ta, không cho ta nhận ra những tiến bộ vượt bậc của người Âu thời ấy; đã bịt miệng ta không cho ta kiến nghị, hoặc chỉ nói lên nỗi niềm trong mỗi người.
Đau đớn hơn nữa, bị người Pháp đô hộ đã làm cho người Việt ta tự ti đến nỗi cứ nghĩ cái gì của người da trắng - của "Tây" - đều là hay, là tốt cả, và gần như bất cứ người da trắng nào cũng vượt trội hơn người mình. Hơn cả chính mình nữa.  Ngay đến bây giờ cũng vẫn còn.
                         
                                                                         Ảnh minh họa
Đã bao lần bạn bước vào một nhà hàng, cửa tiệm hay văn phòng cùng với người da trắng từ bất cứ nước nào, có khi chỉ là "Tây ba lô", và nhân viên người Việt đã đon đả, có khi còn xum xoe, khúm núm, đón tiếp người da trắng như một khách quí đại gia còn coi bạn, người đồng hương, như "Anh pha?"...
Vì thế, muốn kết nối thành công với thiên hạ bất cứ từ đâu tới, ta phải "biết mình, biết người" đã. Biết để học những gì mình còn thua người ta chứ không phải để tìm kẽ hở của người ta mà tấn công, như Tôn Tử đã dạy về binh pháp. Biết để cố gắng trau dồi những gì ta còn thiếu sót, còn thua người. Và biết để ta có cơ sở khi cảm thấy hãnh diện về người đồng hương, về các thành quả của đất nước.
Tóm lại, ta tự lực vươn lên cho bằng người.  Đó là tự trọng. Không mặc cảm nữa.
Tự cường để hội nhập bình đẳng với thế giới.
Khi ta đã đạt được căn bản tự tin và tự trọng, lúc đó ta mới nên nói chuyện tự cường.
Tự cường là tin vào sức mạnh cùa chính mình, nhưng không tự kiêu, không tự mãn, không lạm dụng sức mạnh đó.  Ngược lại, ta cũng không để cho ai bắt nạt ta, không cho ai lừa dối ta, không cho ai đô hộ ta lần nữa.
Ở đây ta cũng cần phân biệt rõ ràng hai lĩnh vực công và tư. Trong đời tư, ai cũng có quyền, và nhiều khi cũng nên, "xí xóa" với bạn bè, "thông cảm" với bà con trong họ, hoặc "chín bỏ làm mười" với người mình yêu.
Nhưng trong việc "công", quyền lợi của dân tộc, toàn vẹn của đất nước, việc bảo vệ cái "gia tài của mẹ" như tên của Trịnh Công Sơn đã đặt, chúng ta không ai có quyền "lấy chín làm mười" được.  Trong lĩnh vực chung của đất nước, "Chín" chỉ là chín; không thể nào là mười được.
Xưa kia, đối mặt với kẻ thù, Việt Nam ta thường chỉ là "một chọi một", không có ai giúp, không có đồng minh.  Nhưng sang thế kỷ này, với bao nhiêu tổ chức quốc tế  --từ Liên hiệp quốc, Tổ chức Thương mại QT, hay IMF, Ngân hàng Thế giới...  cho đến các tòa án QT, các liên minh kinh tế, chính trị, văn hóa...-- và phương tiện truyền thông lập tức và toàn cầu, ta có thể có đồng minh, có bạn, hay ít nhất có những người, những quốc gia có cảm tình với ta.
Thêm bạn bớt thù.
Đây mới chính là mục đích của "hội nhập thế giới" vì những phương châm bên trên chỉ là phương tiện để đạt cứu cánh chiến lược này.
Một câu nói từ thời còn trung học vẫn làm tôi nhớ mãi, và càng ngày càng thấy "có lý": No man is an island (không ai là một hải đảo.) Trong thế kỷ này, ta có thể thêm tí mắm muối: "No country is an island" (Không có quốc gia nào là một hải đảo.)
Và quả thật như vậy. Bạn cứ tưởng tượng xem thế giới sẽ phản ứng như thế nào nếu Mỹ lại đổ quân xâm chiếm Philippines như hồi năm 1898, hoặc Liên Xô "tái lập trật tự" ở Hungary năm 1956? Điều tương tự cũng xảy ra trong trường hợp Nga ở Afghanistan và mới đây như Mỹ ở Iraq.
Ngược lại, trong cuộc chiến chống xâm lược Mỹ, bộ đội Bác Hồ được sự ủng hộ mạnh mẽ của các phong trào phản chiến trên khắp thế giới. Chính sách kỳ thị chủng tộc của Nam Phi bị đánh bại phần lớn cũng do sự tẩy chay của gần hết các quốc gia trên thế giới, dẫn đến việc Nam Phi phải thả lãnh tụ Nelson Mandela...
Chúng ta không còn cô độc như xưa nữa. Ở một tầm mức nào đó, chúng ta có đồng minh khi ta có chính nghĩa.  Trong bối cảnh mới này, chiến lược căn bản của nước ta là "thêm bạn, bớt thù." Ta không xâm phạm quyền lợi của ai và ta cũng không để ai xâm phạm quyền lợi của mình.  Ta đối xử với mọi người, mọi nước trong tình thân hữu, trên căn bản bình đẳng và công lý. Và ta dùng văn hóa là đầu mối để thêm bạn vì chỉ có văn hóa mới bền vững và không gây thù oán.
Chính trị và quân sự chỉ là nhất thời; khi ta thua thì ta thiệt thòi, mà khi ta thắng, ta cũng gieo hạt giống để đối phương tìm cách trả thù. Kinh tế còn trồi sụt nhanh hơn nữa; như ta đang thấy trên khắp thế giới. Hơn nữa, mục đích của kinh tế là làm giàu cho người đầu tư và thương gia chứ không nhất thiết cho đất nước, cho cộng đồng, nên người làm kinh tế thường phải dùng những chiến thuật đạt được tư lợi hơn là phục vụ đồng loại. Và vì hoàn cành phải cạnh tranh này, thương gia nhiều khi phải coi các đồng nghiệp là "đối phương" hơn là thân hữu.
Chỉ có văn hóa là trường tồn.  Văn hóa thường không gây thù oán, không làm ai mất thể diện; ngược lại văn hóa thường làm cho ta thoải mái hơn, vui hơn, và từ đó ta cũng dễ chấp nhận người làm văn hóa.
trong thời chiến tranh lạnh hơn nửa thế kỷ trước, dân chúng ở Đông Âu và ngay ở Liên Xô vẫn thưởng thức nhạc Jazz của Mỹ và vẫn ham mộ Louis Armstrong hay Ella Fitzgerald.
Trước đó, ở Việt Nam, mặc dù là chúng ta kháng chiến chống Pháp đến cùng nhưng giới trí thức trong nước vẫn đọc thơ Verlaine, Apollinaire hay ngâm nga những bài hát do Piaf, Trenet phổ biến.  Nên ta có thể tin rằng một câu thơ của Pushkin, một khúc nhạc Beethoven, hay một điệu Rối Nước... sẽ vẫn được trân trọng và yêu quí hàng nghìn năm nữa.
                                                                                         Vũ Đức Vượng Tuần Việt nam nét.